Thuanhuupro
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Thuanhuupro

QUẢN Lý : LƯƠNG THUẬN HỮU
 
Trang ChínhTrang Chính  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  

 

 “Ông vua” vũ khí Việt Nam Trần Đại Nghĩa

Go down 
Tác giảThông điệp
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 602
Join date : 24/09/2008
Age : 36
Đến từ : Tiên Hiệp - Tiên Phước - Quang Nam

“Ông vua” vũ khí Việt Nam Trần Đại Nghĩa Empty
Bài gửiTiêu đề: “Ông vua” vũ khí Việt Nam Trần Đại Nghĩa   “Ông vua” vũ khí Việt Nam Trần Đại Nghĩa Icon_minitimeFri Nov 07, 2008 2:04 pm

--------------------------------------------------------------------------------

“Ông vua” vũ khí Việt Nam Trần Đại Nghĩa (1)

“Ông vua” vũ khí Việt Nam Trần Đại Nghĩa Tran-dai-nghia-1
Giáo sư Trần Đại Nghĩa

Dân trí) - Nhà khoa học Trần Đại Nghĩa không chỉ là tên tuổi lớn trong làng khoa học quân sự , có nhiều đóng góp cho đất nước trên nhiều lĩnh vực. Ông là nhà khoa học đầu tiên được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động và Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I. Trải qua hai cuộc kháng chiến cứu nước, tên tuổi ông trở thành một huyền thoại đối với nhiều thế hệ người Việt cũng như bạn bè quốc tế.


Kỳ 1: Những hoài bão cháy bỏng trong chàng trai trẻ



Thủ khoa tú tài Tây

Tên thật của Trần Đại Nghĩa là Phạm Quang Lễ. Ông sinh ngày 13/09/1913 tại thị xã Vĩnh Long, miền Tây Nam bộ trong một gia đình có cha làm giáo viên tiểu học. Ngay từ bé, ông đã ham thích tìm hiểu các hiện tượng thiên nhiên, thiên văn. Đến khi học lớp 5, ngoài những bài học ở lớp, cậu trò nhỏ còn được cha mình dạy thêm những môn như Pháp văn, toán... Cha ông là người vốn là nhà nho uyên thâm chuyển sang học tiếng Pháp, đỗ Thành Chung, được biết đến là người học rộng biết sâu.

Nhưng một biến cố lớn xảy đến, cuộc sống đang yên ấm thì người cha đột ngột qua đời. Vậy là cậu bé Lễ mới lên 7 tuổi đã mồ côi cha. Trước khi mất, ông cụ gọi các con tới trăng trối: “Quanh ta, số người sung sướng chẳng là bao, lớn lên các con có thể cũng đi dạy học như cha, nhưng cũng có thể làm nghề khác, làm nghề chỉ để nuôi thân thì chưa đủ, nhất là với Lễ - phải trở thành trụ cột gia đình, phải biết mang hiểu biết của mình giúp ích cho đời”.

Sau đám tang, cuộc sống bộn bề khốn khó. Cậu Lễ, may thay gửi được vào nhà một ông giáo đồng nghiệp của cha. Thế là cuộc sống ở trọ bắt đầu từ đó. Nỗi nhớ cha, thương mẹ, thương chị luôn khắc khoải trong lòng cậu trò nhỏ. Mẹ và chị gái ở quê thì tần tảo một nắng hai sương nuôi Lễ ăn học, muôn vàn cơ cực.

Đến hè năm 1926, Phạm Quang Lễ thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho. Chuyện cơm áo gạo tiền không còn phải lo nữa, vì vào đây là có học bổng. Lễ luôn học rất tốt các môn khoa học tự nhiên. Đến năm 20 tuổi, những tháng cuối của niên khoá 1932-1933, trong lúc chuẩn bị cho kỳ thi lấy bằng tú tài bản xứ, Phạm Quang Lễ quyết định ghi danh thi lấy bằng tú tài Tây. Hoàn toàn tin vào khả năng của mình, bởi Lễ đã học kỹ các môn tự nhiên như toán, lý hoá- những môn quyết định trong việc thi lấy loại bằng này. Năm ấy, Phạm Quang Lễ thi đỗ thủ khoa cả tú tài Tây và tú tài bản xứ.

Hoài bão của tuổi trẻ

Trở thành thủ khoa, Lễ không ra Hà Nội học đại học mà đi làm ở toà sứ Mỹ Tho. Đó cũng là hai năm tìm cơ hội để đi học nước ngoài với hoài bão sưu tầm tài liệu chế tạo vũ khí. Lòng yêu nước nhen nhóm trong chàng thanh niên mỗi lúc một lớn dậy, để rồi Phạm Quang Lễ nhận ra, chỉ có đấu tranh vũ trang mới có thể giải phóng dân tộc khỏi cảnh thuộc địa.
Lễ chẳng mong gì trở thành một viên chức giống cha, để cả nhà vẫn khổ, mà muốn tiến xa hơn nữa. Thật may, chàng trai trẻ được nhà báo Vương Quang Ngưu nâng đỡ. Ông Ngưu là người luôn gần gũi, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của những người trẻ tuổi có chí hướng giành độc lập cho Tổ quốc để tìm cách nâng đỡ họ. Nhờ đó, Lễ được hội Ái hữu của trường Chasseloup- Laubat cấp học bổng một năm sáng Pháp. Nếu thi đậu đại học, nhà nước Pháp sẽ tiếp tục cấp học bổng.

Tháng 9/1935, chàng trai Phạm Quang Lễ khi đó 22 tuổi, bước chân xuống tàu thuỷ đi Pháp. Hành trang mang theo mình chẳng có gì ngoài hoài bão được học hỏi để trở về phục vụ quê hương. Lần đầu bước chân tới Paris hoa lệ, chàng trai xứ Đông Dương lặng người ngắm nhìn tháp Eiffel để cảm nhận đến tận cùng sự hùng vĩ của nó, cũng như sự cao siêu của khoa học nơi kinh đô ánh sáng. Tháp cao tới 318m nhưng toàn bộ bằng thép và chỉ nặng 7.000 tấn. Tại sao người ta có thể có những tính toán chính xác tuyệt vời nhường ấy!

Được nhận vào một trường Trung học đặc biệt 2 năm để chuẩn bị thi vào Đại học, Lễ vạch ra phương pháp học để có thể hoàn tất chương trình trong vòng 1 năm. Với trí thông minh và lòng ham học, chàng thanh niên học nhảy một lớp (rút ngắn được 1 năm). Trong lòng luôn nung nấu, phải làm sao để có kiến thức đầy đủ cho việc nghiên cứu, thiết kế và chế tạo vũ khí trở về phục vụ sự nghiệp giải phóng đất nước. Nhưng nên bắt đầu bằng cách nào đây, khi mà điều ấy là vô cùng bí mật đối với bất kỳ quốc gia nào? Hoài bão và những câu hỏi luôn cháy bỏng trong lòng chàng thanh niên.

Những chiều hoàng hôn ngồi ghế đá bên bờ sông Seine, lặng ngắm cảnh vật êm đềm thanh bình và lãng mạn, trong lòng Lễ lại ngập lên nỗi nhớ nhà, nhớ quê. Gương mặt khắc khổ vì sương gió của mẹ, hình ảnh chị, những giọt nước mắt tiễn biệt, tiếng còi tàu rú lên rời cảng Nhà Rồng... lại chầm chậm trôi trong đầu như một đoạn phim. Những lúc ấy chỉ biết nén xuống nín lặng tất cả, chờ mong đến ngày đoàn viên.

Những bước ngoặt cuộc đời

Phạm Quang Lễ quyết tâm nộp đơn thi vào trường đại học có những chuyên ngành liên quan đến hoài bão của mình nhiều nhất. Anh chọn Trường quốc gia Cầu đường Paris. Công sức cuối cùng cũng được đền đắp. Anh thi đỗ và được học bổng lên tới 1.200 franc mỗi tháng. Ngoài việc học ở trường Cầu đường, anh cũng nghe giảng ở các đại học danh tiếng khác như Trường tổng hợp Sorbonne, Đại học Mỏ, Đại học Báck khoa, Đại học điện và Học viện kỹ thuật Hàng không và lần lượt thi đậu các bằng Cử nhân khoa học, kỹ sư cầu đường, kỹ sư điện, kỹ sư hàng không.

Mùa hè năm 1937, chị gái mất, ông trở về chịu tang chị rồi lại quay trở lại Pháp. Niềm đau khôn nguôn đành vùi sâu vào lòng. Phải gạt lệ để tiếp tục con đường đã bắt đầu. Không được buồn chán, không thể để người thân thất vọng. Trong suốt thời gian này, ông dồn tâm lặng lẽ nghiên cứu thu thập những thông tin về vũ khí. Sau khi ra trường, ông vào làm ở một hãng Điện khí và tiếp sau đó là một Hãng chế tạo máy bay dân dụng.

Người ta thấy ông thường xuyên xuống các nhà máy, xí nghiệp, vào thư viện, đứng hàng giờ trước những thiết bị khí tài trong Viện bảo tàng vũ khí. Thời gian làm việc cho phòng thiết kế của hãng máy bay, ông đã tiếp xúc với rất nhiều tài liệu quân sự, vũ khí vì hãng nọ còn sản xuất cả máy bay quân sự. Kiến thức cứ âm thầm ngấm vào và lớn lên trong ông theo cách ấy.

Sau ngày đất nước giành độc lập (tháng 8/1945), tình hình trong nước vô cùng phức tạp và căng thẳng. Các thế lực thù trong giặc ngoài, đế quốc phản động luôn tìm mọi cách để xoá bỏ chính quyền cách mạng non trẻ.

Trước tình hình nước sôi lửa bỏng đó, tháng 9/1946 đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm Pháp, cũng là để chọn lựa một số trí thức yêu nước có hiểu biết về vũ khí đưa về Tổ quốc trong đó có Phạm Quang Lễ - lúc đó 33 tuổi, đang là kỹ sư của hãng chế tạo máy bay. Hồ Chủ tịch ân cần hỏi ông:

- Nguyện vọng của chú lúc này là gì?

Quá cảm động vì sự giản dị và quan tâm một cách sâu sắc của Bác, ông nói luôn điều mình đang ấp ủ:

- Kính thưa Cụ, nguyện vọng cao nhất là được trở về Tổ quốc cống hiến hết năng lực và tinh thần.

- Bây giờ ở nhà cực khổ lắm, chú có chịu nổi không? Bác Hồ hỏi.

- Tôi chịu nổi.

- Bây giờ ở nhà kĩ sư và công nhân về vũ khí không có, máy móc thiếu liệu chú có làm được không? Hồ Chủ tịch tiếp lời.

- Tôi đã chuẩn bị 11 năm rồi và tôi tin là sẽ làm được.
Trong những ngày gần gũi Hồ Chủ tịch ở Paris, Phạm Quang Lễ lại càng hiểu sâu sắc hơn về tài đức của Người. Ông đã trình bày với Người nhiều kiến thức về khoa học kỹ thuật, đặc biệt là khoa học quân sự, về những hiểu biết xung quanh thế chiến 2. Những gì ôm ấp bấy nay giờ được dịp thổ lộ, như cá gặp nước, ông lập tức chuẩn bị cho ngày rời Pháp. Trước khi về nước, ông còn tập trung thu thập hàng nghìn cuốn sách liên quan đến nhiều lĩnh vực mà phần lớn là để phục vụ chiến tranh.

Lê Bảo Trung

__________________
Về Đầu Trang Go down
https://thuanhuupro.forumvi.com
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 602
Join date : 24/09/2008
Age : 36
Đến từ : Tiên Hiệp - Tiên Phước - Quang Nam

“Ông vua” vũ khí Việt Nam Trần Đại Nghĩa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: “Ông vua” vũ khí Việt Nam Trần Đại Nghĩa   “Ông vua” vũ khí Việt Nam Trần Đại Nghĩa Icon_minitimeFri Nov 07, 2008 2:07 pm

--------------------------------------------------------------------------------

"Ông vua" vũ khí Việt Nam Trần Đại Nghĩa (2)

“Ông vua” vũ khí Việt Nam Trần Đại Nghĩa Tran-dai-nghia-2
Viện sĩ Trần Đại Nghĩa trong một lần gặp Bác Hồ.
(Dân trí) - Vừa về nước, Phạm Quang Lễ lập tức được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp giao nhiệm vụ lên Thái Nguyên cùng cán bộ công nhân xưởng quân khí Giang Tiên tiến hành nghiên cứu chế tạo đạn badôca, một loại vũ khí chủ yếu dùng đánh xe tăng thời đó. Với những đóng góp của ông cho ngành quân giới, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tặng ông danh hiệu "Ông Phật làm súng".


Kỳ II: Phát minh lay chuyển cục diện


Phạm Quang Lễ trở thành Trần Đại Nghĩa

Ngày 20/10/1946, con tàu đưa Hồ Chủ tịch và đoàn tuỳ tùng cập bếën Hải Phòng. Bến cảng rợp bóng cờ hoa, hàng nghìn đồng bào kéo nhau ra hân hoan chào đón Chủ tịch. Những tiếng reo hò: "Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm!" dậy lên khắp nơi. Trong lòng chàng trai trẻ Phạm Quang Lễ nghẹn ngào khó diễn tả. Ông tự nhủ lòng phải làm gì đó góp phần xứng đáng với niềm tin yêu của Bác, của người dân đã dành cho mình.

Chỉ 7 ngày sau khi về nước (27/10/1946), Phạm Quang Lễ lập tức được Bác trực tiếp giao nhiệm vụ lên Thái Nguyên, nghiên cứu chế tạo súng chống tăng dựa theo mẫu badôca của Mỹ, với hai viên đạn do GS Tạ Quang Bửu lúc này là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng cung cấp. Phải bắt tay vào việc ngay. Nhưng mới chỉ được ít hôm thì lại có điện gấp từ Bộ Quốc phòng gọi về gặp Bác Hồ.

Ngày 5/12/1946, Phạm Quang Lễ tới Bắc bộ phủ. Lòng khấp khởi, chàng kỹ sư trẻ không hiểu Bác muốn gặp mình để giao nhiệm vụ gì. Vừa gặp, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng nhưng cũng đầy thân mật bảo: "Kháng chiến sắp đến nơi rồi, hôm nay tôi gọi chú lại để trao cho chú nhiệm vụ làm Cục trưởng quân giới. Chú lo vũ khí cho bộ đội diệt giặc". Bác Hồ giao cho ông toàn quyền hành động trong việc chế tạo vũ khí mà không phải thông qua bất kỳ một cấp nào khác.

Rồi Người căn dặn: "Việc của chú là việc đại nghĩa, vì thế từ nay Bác đặt tên cho chú là Trần Đại Nghĩa. Dùng bí danh này để giữ bí mật cho chú và để bảo vệ gia đình, bà con chú còn ở trong Nam". Bác giải thích ý nghĩa cái tên: "Một là họ Trần, là họ của danh tướngTrần Hưng Đạo. Hai là, Đại Nghĩa là nghĩa lớn để chú nhớ đến nhiệm vụ của mình với nhân dân, với đất nuớc. Đại Nghĩa còn là chữ của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo. Chú có ưng bí danh đó không?".

Đảng và Nhà nước ta đánh giá cao công trình nghiên cứu súng Badôca. Năm 1996, GS VS Trần Đại Nghĩa đã vinh dự nhận được Giải thưởng Hồ Chí Minh về công trình nghiên cứu chế tạo Badôca trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp.

Thế là từ đấy, cái tên Trần Đại Nghĩa gắn với cuộc đời ông. Có thể nói trong những ngày tháng miệt mài nghiên cứu chế tạo vũ khí ở Chiến khu Việt Bắc là thời gian kĩ sư Trần Đại Nghĩa cảm thấy có ý nghĩa nhất trong cuộc đời hoạt động của mình. Sau này, đến những ngày trước khi qua đời, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa vẫn nhắc lại tình cảm sâu sắc Bác dành cho ông, nhắc lại ngày 5/12 lịch sử, ông được giao nhiệm vụ Cục trưởng Cục quân giới và trao bí danh đầy ý nghĩa này. Đó là mốc lịch sử rất lớn đối với cuộc đời ông.

Chế tạo súng Badôca

Cùng các cộng sự, Trần Đại Nghĩa bắt tay vào công việc ngay từ tháng 11/1946. Ông say mê làm việc đến quên ăn, quên ngủ. Nhiều đêm ông chỉ mong cho trời chóng sáng để làm việc, nghiên cứu, thử nghiệm. Song công việc không hề dễ dàng. Ông chỉ đạo xưởng Giang Tiên sản xuất thành công một khẩu súng Badôca 60 mm và 50 quả đạn. Khi bắn thử, đạn nổ nhưng chưa xuyên.

Đạn Badôca của Mỹ được nhồi bằng thuốc phóng, còn ta chỉ có loại thuốc súng lấy được từ bom đạn của Pháp. Tất cả đều phải tính toán lại từ đầu và phải hiểu được những nguyên lý cơ bản về thuốc phóng, thuốc nổ. Những kiến thức sách vở 11 năm thu lượm xứ người bắt đầu phát huy tác dụng. Hình ảnh người kỹ sư miệt mài tính toán tốc độ cháy, đốt thử các loại thuốc súng, ngày đêm với cây thước tính trong tay... đã trở nên quá đỗi quen thuộc với các cán bộ Chiến khu. Chỉ một sai sót nhỏ sẽ phải trả giá bằng xương thịt của chiến sĩ nơi trận mạc, vì thế trách nhiệm càng đè nặng lên vai ông.

Những cán bộ chiến khu sau này kể lại, họ rất... sợ khi đi qua phòng ông vì đó là nơi rất nguy hiểm. Trong căn phòng chứa đầy thuốc nổ đủ loại, chỗ nào cũng thấy ngổn ngang bao tải thuốc nổ, trên mặt bàn làm việc la liệt các loại đạn Badôca, quả đang nghiên cứu, quả đã nhồi xong, quả thì chưa nhồi, rồi thì hạt nổ... Kỹ sư lại có thói quen... hút thuốc mỗi lúc tư duy. Rõ ràng tai hoạ luôn rình rập. Cuối cùng, điều kì diệu đã đến. Cuối tháng 2 năm 1947, cuộc thử nghiệm Badôca thành công. Mức đâm xuyên của đạn vừa chế tạo đạt độ sâu 75cm trên tường thành xây gạch tương đương với sức nổ xuyên của đạn Badôca do Mỹ chế tạo. Đây là bất ngờ lớn đối với địch.

Người ta kể rằng một cuộn dây điện trở loại nhỏ, được tháo ra từ một chiếc vôn kế. Nếu không có thì việc nghiên cứu của ông không thể thực hiện được. Nó được dùng làm sợi tóc đốt mồi thuốc súng đen a-moóc, nếu sợi tóc bị đứt thì đạn bị xịt. Trần Đại Nghĩa luôn giữ cuộn dây ấy bên mình, cho đến một đêm đáng nhớ: 2/3/1947. Cuộn dây đã được đem ra sử dụng trong tình trạng khẩn cấp.

Đêm đó, ông Phan Mỹ, Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ sản xuất cấp tốc đạn Badôca để cản phá cuộc hành quân của Pháp. Chúng ta đã vây Pháp hơn 2 tháng ở Hà Nội và giờ chúng đang tìm cách thoát ra. Ông Phan Mỹ yêu cầu: "Các đồng chí đã bắn thử Baôca thành công, tuy chưa chắc chắn lắm nhưng tình hình lúc này rất cấp bách. Sáng mai quân Pháp có khả năng chọc thủng mặt trận Cầu Mới- Hà Đông. Đề nghị anh Nghĩa cho nhồi gấp đạn Badôca ngay trong đêm để kịp mang đến cho đồng chí Vương Thừa Vũ trong ngày mai. Anh Vũ đang bảo vệ Bác Hồ và Chính phủ ở Quốc Oai, Hà Tây.

Dưới ánh đèn võ vàng, tất cả đều được huy động nhồi thuốc, lắp đạn. Chẳng ai còn đầu óc nào để nghĩ đến căn phòng đáng sợ của kỹ sư. Cật lực suốt đêm, đến 3 giờ sáng thì tổ nghiên cứu của Trần Đại Nghĩa cùng anh em trong cơ quan Cục Quân giới nhồi lắp được 10 quả đạn mang mã hiệu B60, kèm 1 quả đạn khói, 1 súng Mỹ cải tiến đưa ra mặt trận.

Nỗi kinh hoàng của kẻ địch

Sáng 3/3/1947, máy bay Pháp bắt đầu quần đảo nhằm yểm trợ cho xe tăng, cơ giới của địch đánh chiếm thị xã Hà Đông. Quân ta bố trí dọc đê. Chiếc xe đi đầu bị bắn cháy ngùn ngụt, chiếc thứ 2 cũng bị đạn bắn hỏng. Cả đoàn xe địch khựng lại, hỗn loạn rồi thối lui. Sự xuất hiện của một loại vũ khí mới đã khiến chúng bất ngờ và hoang mang. Ngày 3/3/1947 đã trở thành một mốc son của ngành Quân giới Việt Nam trong việc chế tạo khí tài, súng đạn. Chiến công này góp phần bẻ gẫy cuộc tấn công của địch ra vùng Chương Mỹ, Quốc Oai.

Sau việc sản xuất súng đạn Badôca thành công, cục Quân giới chuyển lên Việt Bắc và tiếp tục sản xuất hàng loại súng này. Vũ khí của ta lúc này rất hiếm, riêng Badôca là loại vũ khí quí. Badôca xuất hiện lần đầu tiên trên thể giới vào Thế chiến 2, năm 1943, đã trở thành vũ khí đáng sợ đối với nhiều đơn vị quân đội. Tuy nhiên việc một đất nước vừa thoát khỏi cảnh thuộc địa và nửa phong kiến như nước ta đã chế tạo thành công loại vũ khí hiện đại này, thật như huyền thoại và là điều không thể ngờ đến của địch.

Bộ đội sau khi được trang bị nhiều súng Badôca đa có nhiều sáng tạo trong chiến đấu. Nếu trước kia Badôca chỉ nhắm vào các loại xe tăng, thiết giáp thì sau này, bộ đội còn sử dụng để bắn ôtô, lô cốt, dùng thay thế lựu đạn ở những nơi đối phương tập trung đông. Đạn Badôca có tầm xa tới 600m, phạm vi sát thương tới 50m, nhưng không làm hỏng vũ khí đối phương. Vì vậy chúng ta đã tịch thu được nhiều súng đạn của giặc sau mỗi trận thắng. Từ khi đưa vào sử dụng, Badôca đã gây cho địch nhiều tổn thất rất lớn.

Từ các mặt trận, thư của chiến sĩ gửi về ngành quân giới tới tấp. Những người lính trực tiếp chiến đấu đã có nhiều phản hồi giúp kỹ sư hoàn thiện hơn loại vũ khí này. Súng Badôca đã trở thành nỗi kinh hoàng của kẻ địch, nhưng vẫn còn những hạn chế, chẳng hạn như tầm bắn chưa tốt, nếu bắn cách xa 100m thì sức phá sẽ kém đi...

Người lính trông đợi những vũ khí uy lực hơn, tiện dụng hơn, và thế là những kỹ sư lại miệt mài nghiên cứu. Chiến sự ngày một ác liệt, ngoài Badôca chiến trường cần phải có thêm vũ khí hạng nặng. Trần Đại Nghĩa lại đêm ngày nghiên cứu. Năm 1948, khi vũ khí hạng nặng bắt đầu được sản xuất thì Trần Đại Nghĩa cũng được phong quân hàm Thiếu tướng, trở thành một trong 10 vị tướng đầu tiên của quân đội ta. Khi ấy ông mới 35 tuổi.


Lê Bảo Trung
Về Đầu Trang Go down
https://thuanhuupro.forumvi.com
 
“Ông vua” vũ khí Việt Nam Trần Đại Nghĩa
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Ev-Tran 4.0 - Ev-Shuttle 3.0
» Định nghĩa ngược tình yêu
» Các máy bay Mig-21 nổi tiếng trong CT Việt Nam
» Áo giáp chống đạn Việt Nam
» Bong da Viet Nam

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Thuanhuupro :: LỊCH SỬ-
Chuyển đến